Trong hệ thống tư pháp hình sự Việt Nam, Kiểm sát viên và Kiểm tra viên đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình xử lý vụ án hình sự. Kiểm sát viên và Kiểm tra viên đều là những người chuyên trách trong việc giám sát, điều tra các vụ án hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và xã hội. Tuy nhiên, vai trò và quyền hạn của họ không giống nhau và được quy định cụ thể trong pháp luật để đảm bảo tính công bằng và minh bạch trong quá trình xét xử. Qua bài viết này, Công ty Luật TNHH HT Legal VN sẽ đi sâu vào nghiên cứu về vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm sát viên và Kiểm tra viên trong các vụ án hình sự, từ đó giúp độc giả hiểu rõ hơn về vai trò quan trọng của họ trong hệ thống tư pháp của Việt Nam.
Cơ sở pháp lý:
- Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2015
- Luật Tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân 2014
Nội dung:
- Kiểm sát viên là ai?
Theo quy định tại Điều 74 Luật Tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân 2014 thì: “Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Để trở thành Kiểm sát viên, cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn chung được quy định tại Điều 75 Luật Tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân 2014 như sau:
“1. Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Có trình độ cử nhân luật trở lên.
- Đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát.
- Có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của Luật này.
- Có sức khỏebảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.”
Kiểm sát viên được phân chia thành các ngạch: Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; Kiểm sát viên cao cấp; Kiểm sát viên trung cấp; Kiểm sát viên sơ cấp theo quy định tại Điều 76 Luật Tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân 2014.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong vụ án hình sự:
Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên trong vụ án hình sự được quy định tại Điều 42 BLTTHS 2015, Công ty Luật TNHH HT Legal VN sẽ phân tích rõ hơn trong phần dưới đây:
Thứ nhất, kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan, người có thẩm quyền; trực tiếp giải quyết và lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm. Kiểm sát việc tạm đình chỉ, phục hồi việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; việc tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra, phục hồi điều tra, kết thúc điều tra.
Thứ hai, kiểm sát việc thụ lý, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; kiểm sát việc lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm, việc lập hồ sơ vụ án của cơ quan, người có thẩm quyền điều tra; kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc kiểm sát của Kiểm sát viên đối với các hoạt động này đảm bảo việc khởi tố, điều tra và lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra theo đúng quy định của pháp luật.
Thứ ba, trực tiếp kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, khám xét.
Thứ tư, đề ra yêu cầu điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã, đình nã bị can. Thông thường việc điều tra do Cơ quan điều tra quyết định. Tuy nhiên khi phát hiện có những sai lầm trong hoạt động điều tra, Kiểm sát viên có thể đề ra yêu cầu điều tra để Cơ quan điều tra đi đúng hướng điều tra làm rõ tội phạm và người phạm tội.
Thứ năm, triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, người làm chứng, bị hại, đương sự; lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Đây là những biện pháp điều tra liên quan đến lấy lời khai của những người tham gia tố tụng. Kiểm sát viên có quyền triệu tập họ vào thời gian nhất định tại một địa điểm nhất định để lấy lời khai của họ.
Thứ sáu, quyết định áp giải người bị bắt, bị can; quyết định dẫn giải người làm chứng, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại; quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát; quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội.
Thứ bảy, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của BLTTHS 2015.
Thứ tám, yêu cầu thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; yêu cầu cử, đề nghị thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật.
Thứ chín, tiến hành tố tụng tại phiên tòa; công bố cáo trạng hoặc quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn, các quyết định khác của Viện kiểm sát về việc buộc tội đối với bị cáo; xét hỏi, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, luận tội, tranh luận, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa, phiên họp. Những việc làm này liên quan đến thực hành quyền công tố tại phiên tòa. Để làm được điều này, Kiểm sát viên phải nắm chắc những tình tiết của vụ án, nhờ đó việc tranh tụng, luận tội mới có sức thuyết phục.
Thứ mười, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn xét xử của Tòa án và những người tham gia tố tụng; kiểm sát bản án, quyết định và các văn bản tố tụng khác của Tòa án. Thông qua việc thực hành công tố, Kiểm sát viên xem xét việc giải quyết giải quyết vụ án hình sự của Tòa án có đúng theo pháp luật tố tụng hình sự hay không để đưa ra các kháng nghị kịp thời.
Mười một, kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Kiểm sát viên khi được phân công kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án cần nhanh chóng phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đã được đưa vào thi hành chưa, việc thi hành có nghiêm túc hay không để có các biện pháp khắc phục kịp thời.
Mười hai, thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị theo quy định của pháp luật và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát theo quy định của BLTTHS 2015.
Kiểm sát viên phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng Viện kiểm sát về hành vi, quyết định của mình. Quy định này đảm bảo những hành vi của Kiểm sát viên phải đặt dưới sự kiểm soát của pháp luật và của người lãnh đạo Viện kiểm sát, đảm bảo mọi hoạt động công tố và kiểm sát là hợp pháp.
- Kiểm tra viên là ai?
Căn cứ tại điều 90 Luật Tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân 2014 thì: “Kiểm tra viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để giúp Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo sự phân công của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân.”
Kiểm tra viên có các ngạch: Kiểm tra viên; Kiểm tra viên chính; Kiểm tra viên cao cấp.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm tra viên trong vụ án hình sự
Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm tra viên được quy định tại Điều 90 Luật Tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân 2014, bao gồm:
Thứ nhất, nghiên cứu hồ sơ vụ, việc và báo cáo kết quả với Kiểm sát viên;
Thứ hai, lập hồ sơ kiểm sát vụ, việc;
Thứ ba, giúp Kiểm sát viên thực hiện hoạt động khác khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp;
Thứ tư, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo sự phân công của Viện trưởng.
Kiểm tra viên chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước Kiểm sát viên và trước Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Kiểm sát viên và Kiểm tra viên đều đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tư pháp hình sự, tuy nhiên, giữa hai chức danh này có những điểm giống và khác nhau về chức danh, vị trí, nhiệm vụ chính, quyền hạn, trình độ chuyên môn và trách nhiệm. Việc phân biệt rõ ràng những điểm này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về vai trò, chức năng của từng chức danh và tầm quan trọng của họ trong việc bảo vệ pháp luật và trật tự xã hội.
Trên đây là toàn bộ chia sẻ của Công ty Luật TNHH HT Legal VN về: “Tìm hiểu kiểm sát viên, Kiểm tra viên là ai? Nhiệm vụ, quyền hạn của họ trong vụ án hình sự?” Hy vọng bài viết trên giúp bạn đọc và quý khách hàng hiểu rõ hơn về Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và tầm quan trọng của họ trong việc bảo vệ pháp luật và trật tự xã hội.